Làn sóng thứ ba của chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Giáo sư, Tiến sĩ MICHAEL BRIE -  Chủ tịch Ban Cố vấn Khoa học của Viện Rosa Luxemburg Đảng Cánh tả Đức

Giáo sư, Tiến sĩ MICHAEL BRIE -  Chủ tịch Ban Cố vấn Khoa học của Viện Rosa Luxemburg Đảng Cánh tả Đức

Công cuộc đổi mới mà Việt Nam thực hiện 35 năm qua là một cách tiếp cận xã hội chủ nghĩa sáng tạo, có ý nghĩa lớn và là một phần của sự khởi đầu từ rất sớm của làn sóng chủ nghĩa xã hội thứ ba mà chúng ta vẫn đang ở giai đoạn ban đầu. Đó là giai đoạn của sự tìm tòi một giải pháp thay thế ưu việt để cứu nền văn minh nhân loại khỏi bị hủy diệt trước cuộc khủng hoảng căn bản của nền văn minh tư bản chủ nghĩa.

Trong một nền văn minh hài hòa, cuộc sống phụ thuộc vào một công việc có thu nhập cao cần được thay thế bởi sự cân bằng với sự quan tâm lẫn nhau, cam kết xã hội và thời gian nghỉ ngơi. (Ảnh: Quang Vinh)
Trong một nền văn minh hài hòa, cuộc sống phụ thuộc vào một công việc có thu nhập cao cần được thay thế bởi sự cân bằng với sự quan tâm lẫn nhau, cam kết xã hội và thời gian nghỉ ngơi. (Ảnh: Quang Vinh)

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới, mở ra một giai đoạn mới cho sự phát triển xã hội chủ nghĩa không chỉ ở Việt Nam. Không giống như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Trung và Đông Âu, Việt Nam đã đạt được những chuyển biến sâu rộng về kinh tế, chính trị và xã hội, kết hợp một cách thành công giữa sự đổi mới nhanh và hiệu quả với sự ổn định chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, Việt Nam cũng đã có nhiều nỗ lực cải thiện điều kiện xã hội cho đại bộ phận người dân, giảm tình trạng đói nghèo. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được rõ ràng đã trở thành một phần của phong trào lịch sử thế giới và có thể gọi đây là làn sóng thứ ba của chủ nghĩa xã hội.

Trong bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu bật việc khắc phục được những hạn chế cơ bản đặc trưng cho làn sóng chủ nghĩa xã hội thứ hai qua kinh nghiệm của Liên Xô, cho rằng, chúng ta đã “từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều, quan hệ sản xuất chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản,...”.

Đây cũng là thời điểm thế giới cần tiếp tục tiến hành các cuộc thảo luận về chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh một cuộc khủng hoảng mới và sâu sắc của chủ nghĩa tư bản đang diễn ra. Ba mươi năm sau sự sụp đổ của Liên Xô, đã đến lúc chúng ta cần có một cách nhìn mới về chủ nghĩa xã hội. Đối với nhiều nhà quan sát phương Tây, sự kết thúc của Liên Xô dường như là sự xóa bỏ vĩnh viễn bất cứ thách thức mang tính hệ thống nào đối với chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu chỉ tập trung vào những tàn tích của Liên Xô thì tầm nhìn sẽ bị che khuất. 

Cuộc khủng hoảng sâu sắc của nền văn minh tư bản chủ nghĩa đương thời cho thấy, chủ nghĩa xã hội hoàn toàn không thể biến mất khỏi tiến trình lịch sử thế giới mà chỉ đơn giản là đang được làm mới. Và việc tìm ra câu trả lời thuyết phục để giải quyết những thách thức của chủ nghĩa tư bản hiện đại trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tồn tại từ cách đây hơn 250 năm. Lịch sử của chủ nghĩa xã hội hiện đại cũng dài như vậy.

Cách mạng công nghiệp Anh đã minh chứng rằng, năng suất lao động của xã hội có thể tăng vượt bậc trong vòng vài thập kỷ. Điều này chưa từng xảy ra trong lịch sử loài người. Một cuộc sống thoải mái không phải chỉ dành cho tầng lớp trung lưu đang nổi mà thực sự còn có thể dành cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy. Như nhà cải cách xã hội Robert Owen (1771 - 1858) đã viết: “Thế giới hiện nay đã bão hòa với sự giàu có - với nguồn của cải vô tận không ngừng gia tăng - nhưng sự khốn khổ vẫn đầy rẫy! Đó chính là tình trạng thực tế của xã hội loài người hiện nay. Không thể có sự dàn xếp nào tồi tệ hơn điều đang diễn ra hiện nay ở khắp các quốc gia trên trái đất”. Vì vậy, những người theo chủ nghĩa xã hội và cộng sản đầu tiên đã đặt ra vấn đề là phải tổ chức lại xã hội.

Làn sóng thứ nhất của chủ nghĩa xã hội làm nảy sinh đầy đủ các hình thái cơ bản của chủ nghĩa xã hội, từ chủ nghĩa tiên phong cách mạng, chủ nghĩa cải lương đến chủ nghĩa vô chính phủ. Các hiệp hội bí mật, các đảng phái chính trị, các phong trào chính trị và xã hội rộng khắp của công nhân, hay thậm chí cả đội quân cách mạng của những người nô lệ hay nông dân cũng đều là một phần trong làn sóng đó. Chủ nghĩa Mác xuất hiện với cơ sở khoa học đã hình thành những phác thảo về sự chuyển đổi sang một xã hội hậu tư bản trong thực tế.

Làn sóng đầu tiên của chủ nghĩa xã hội là giai đoạn hình thành chủ nghĩa xã hội về mặt lý luận và chính trị trong điều kiện chủ nghĩa tư bản phát triển trên phạm vi toàn cầu vào thế kỷ XIX. Chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa bảo thủ vẫn thống trị trên vũ đài chính trị. Cục diện này đã thay đổi, trước tiên là với cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sau đó là việc các đảng dân chủ xã hội lên nắm chính quyền sau các cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Những người Bôn-sê-vích không chỉ thành công trong việc khẳng định quyền lực của mình từ bối cảnh của cuộc nội chiến, mà còn đưa Liên Xô vào con đường hiện đại hóa công nghiệp. Một thế lực đã nổi lên và mang lại chiến thắng quyết định trước nước Đức của Hitle, hình thành phe xã hội chủ nghĩa và trong nhiều thập kỷ đã duy trì được vị thế cạnh tranh với Mỹ và các nước phương Tây.

Thắng lợi năm 1949 của Quân đội Giải phóng nhân dân do Đảng Cộng sản Trung Quốc dẫn dắt không chỉ chấm dứt thời kỳ bị đế quốc đô hộ và nội chiến của Trung Quốc, mà còn mở đường đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc hiện đại, có tầm ảnh hưởng theo một cách khác với Liên Xô. Các cuộc cải cách theo đường lối dân chủ xã hội ở Tây Bắc Âu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và đặc biệt từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã tạo ra các nhà nước phúc lợi xã hội có chứa đựng yếu tố tư bản chủ nghĩa. Về phần mình, chính sách kinh tế mới (New Deal) của Mỹ đã tạo ra một mối quan hệ cộng sinh giữa chủ nghĩa tư bản và sự thịnh vượng của đại đa số người dân. Chủ nghĩa tư bản, dân chủ và mức sống ngày càng cao dường như tương thích với nhau.

Tuy nhiên, cho đến đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, rõ ràng là những thành công nói trên không thể được duy trì. Một cuộc khủng hoảng sâu sắc đã diễn ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Tốc độ đổi mới kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa chậm lại đáng kể so với các nước phương Tây. Việt Nam đã không thể biến thắng lợi vĩ đại của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thành sự phát triển năng động vượt bậc mới của lực lượng sản xuất hiện đại.

Các nhà nước phúc lợi phương Tây cũng như các nước đang phát triển phải đối mặt với nhu cầu cải cách ngày càng lên cao. Các nước châu Âu chịu ảnh hưởng của Liên Xô cũng như nền dân chủ xã hội phương Tây không thể tìm ra một đáp án thỏa đáng cho những thách thức này và đã bị cuốn theo làn sóng chủ nghĩa tự do mới. Trong suốt thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội đã chứng minh khả năng trở thành một đối thủ nặng ký trước chủ nghĩa tư bản. Nhưng chủ nghĩa xã hội trong thế kỷ XX đã không thể kéo dài sự cạnh tranh với chủ nghĩa tư bản và rơi vào khủng hoảng sâu sắc.

Tuy nhiên, trái ngược với suy nghĩ của nhiều người, sự sụp đổ của Liên Xô không đánh dấu sự kết thúc của chủ nghĩa xã hội mà trái lại còn có thể coi là dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa xã hội 3.0. Trước hết, trong thời khắc chiến thắng, chủ nghĩa tư bản từ lâu đã bước vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc và đã đến giới hạn mang tính hệ thống. Khi hệ thống Xô-viết yếu hơn biến mất, chủ nghĩa tư bản vẫn không chiếm được nhiều ưu thế như trước đây. Chủ nghĩa tư bản có ưu thế về định giá vốn với lợi ích cốt lõi là tích lũy tư bản. C. Mác đã gọi đây là một “sự cần thiết nhất thời” để giải phóng những tiềm năng sản xuất mà sau đó sẽ cho phép sự phát triển tự do của mỗi cá nhân trên cơ sở gia tăng của cải xã hội.

Ngày nay, trong các xã hội phát triển cao ở phương Tây, những điều kiện này từ lâu đã hoàn thiện. Chủ nghĩa tư bản phần lớn đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang phá hủy các nền tảng tự nhiên của cuộc sống con người; một cuộc khủng hoảng sinh thái đang diễn ra. Sự dồi dào vật chất cũng không thể đổi thành thời gian nhàn rỗi, sức sáng tạo phát triển; tình cảm quan  tâm chăm sóc lẫn nhau cũng như không mang lại một xã hội được vun đắp. Một cuộc khủng hoảng về lý tưởng đang diễn ra. Sự bóc lột tư bản và những hạn chế của nó không phù hợp với nền dân chủ, kéo theo một cuộc khủng hoảng về tính chính danh chính trị. Toàn cầu hóa mang tính chất tự do mới và chủ nghĩa tư bản tài chính đang chia rẽ thế giới, dẫn tới khủng hoảng về an ninh quốc tế. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng và đang tiến tới một bước ngoặt chuyển đổi cơ bản hoặc sẽ tự hủy diệt.

Công cuộc đổi mới mà Việt Nam thực hiện 35 năm qua là một cách tiếp cận xã hội chủ nghĩa sáng tạo, có ý nghĩa lớn và là một phần của sự khởi đầu từ rất sớm của làn sóng chủ nghĩa xã hội thứ ba mà chúng ta vẫn đang ở giai đoạn ban đầu. Đó là giai đoạn của sự tìm tòi một giải pháp thay thế ưu việt để cứu nền văn minh nhân loại khỏi bị hủy diệt trước cuộc khủng hoảng căn bản của nền văn minh tư bản chủ nghĩa. Tôi xin nhấn mạnh hai đặc điểm của giải pháp thay thế này:

Trước hết, chúng ta học được kinh nghiệm từ làn sóng thứ hai của chủ nghĩa xã hội rằng giải pháp thay thế cho chủ nghĩa tư bản chỉ có thể tồn  tại nếu giải pháp đó có nhiều khả năng đổi mới. Các giải pháp đó phải trở thành những xã hội học hỏi, chứ không thể là kiểu tập trung quan liêu như hệ thống Xôviết và cũng không phải hệ thống chủ yếu theo hướng cạnh tranh như kiểu của Mỹ. Elinor Ostrom, người từng đoạt giải Nobel đã lập luận rằng, các xã hội đa trung tâm sẽ đóng vai trò tốt nhất để thúc đẩy phát triển dựa trên sự đoàn kết.

Theo Ostrom, các hệ thống đa trung tâm có thể là công cụ thúc đẩy các cấu trúc tự tổ chức và vượt qua những hạn chế của các cấu trúc thuần túy phi tập trung. Nguồn lực bên ngoài là phương tiện để chống lại các chế độ chuyên chế cùng với các phương tiện khác sẽ khắc phục được sự trì trệ, cung cấp các kiến thức khách quan, thiết lập môi trường học tập mở và các cơ chế giải quyết xung đột có thể giúp nhận ra tiềm năng của sự tự tổ chức. Sự chuyển đổi sang nền công nghiệp 4.0 và nền kinh tế kết nối là điều kiện tiên quyết cho điều này. Hợp tác và cạnh tranh bổ sung lẫn nhau. Công cuộc đổi mới của Việt Nam có được nhiều các yếu tố như vậy.

Thứ hai, Chủ nghĩa xã hội 3.0 chỉ có thể thành công nếu nó tạo điều kiện cho sự xuất hiện của một nền văn minh mới. Điều này đồng nghĩa với việc bảo tồn những thành tựu của chủ nghĩa tư bản, hơn hết là khả năng đổi mới thường xuyên và dẫn tới một sự cân bằng mới trong mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Người ta cũng có thể nói về một nền văn minh hài hòa kết nối được các mâu thuẫn trong sự đoàn kết. Việc khai thác thiên nhiên phải được thay thế bằng sự quan ngại đối với sự cân bằng của môi trường tự nhiên.

Ngày nay, ở bất cứ nơi đâu chúng ta đều đối xử với thiên nhiên như một nguồn để khai thác nguyên liệu thô, biến nó thành một bãi rác của quá trình trao đổi chất, sự nóng lên của bầu khí quyển và sự đầu độc các đại dương. Trái đất cần được đối xử như một khu vườn: được chăm bón và bảo vệ, được nuôi dưỡng bằng năng lượng tái tạo của mặt trời. Trong một nền văn minh hài hòa, cuộc sống phụ thuộc vào một công việc có thu nhập cao cần được thay thế bởi sự cân bằng với sự quan tâm lẫn nhau, cam kết xã hội và thời gian nghỉ ngơi. Một xã hội phát triển sẽ xuất hiện, tập trung vào sự sáng tạo của con người, các mối quan hệ giữa người với người và sự đa dạng của thiên nhiên. Việc đạt được sự đồng thuận dựa trên sự tham gia một cách dân chủ và rộng mở sẽ được ưu tiên hơn là sự cạnh tranh đảng phái và đại diện chính trị.

Sự tiến bộ vượt lên trên chủ nghĩa tư bản thật sự sẽ được kết nối với các yếu tố của xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, các dạng thức của nền dân chủ khuyến khích sự tham gia, sự kết nối giữa công việc, vui chơi và giải trí, sự đầy đủ ở ngay đây và bây giờ. Những gì mà chủ nghĩa tư bản đã phủ định sẽ tiếp tục một lần nữa xuất hiện trong quá trình phủ định chủ nghĩa tư bản - sự phủ định của phủ định. Nền văn hóa và truyền thống dân tộc đậm đà của Việt Nam nói riêng đã tạo ra nhiều nền tảng cho một hành trình như vậy.

Một xã hội dựa trên Chủ nghĩa xã hội 3.0 đòi hỏi một số điều kiện tiên quyết, đó là: (1) Năng suất lao động cao và khả năng thực hiện điều đó đi đôi với bảo vệ hệ sinh thái (tức là, với mức độ tái sản xuất cao); (2) Sự đa dạng các hình thức sở hữu phù hợp với quyền tự do của các cá nhân góp phần vào tự do cho tất cả mọi người trong tình đoàn kết; (3) Các cơ quan tư vấn và ra quyết sách chính trị phải tạo ra môi trường cho sự thống nhất trong đa dạng; (4) Văn hóa đoàn kết; (5) Một hệ thống quốc tế cho phép các quốc gia và dân tộc cùng phát triển trong hòa bình.

Chủ nghĩa tư bản không phù hợp với sự phát triển bền vững và vững chắc như vậy. Các cách tiếp cận khác nhau đối với sự đổi mới xã hội chủ nghĩa - của chủ nghĩa xã hội 3.0 - phải chứng minh được sự đáp ứng các yêu cầu trên. Nếu thành công thì thế kỷ XXI có thể trở thành thế kỷ của chủ nghĩa xã hội hiện thực toàn cầu. Với làn sóng thứ ba, chủ nghĩa xã hội sẽ đồng thời hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Tôi tin tưởng rằng, Việt Nam sẽ tiếp tục có những bước tiến dài theo hướng đi này.